Tác động đối với sự mở rộng lục địa Vận_mệnh_hiển_nhiên

John Quincy Adams, họa phẩm năm 1816 của Charles Robert Leslie, là một người ủng hộ chủ nghĩa lục địa từ những ngày đầu. Cuối đời, ông bất chợt hối hận vì vai trò của ông trong việc giúp chế độ nô lệ tràn lan, và sau đó trở thành người dẫn đầu phản đối việc sáp nhập Texas.

Thuật ngữ "Vận mệnh hiển nhiên" thường có liên hệ nhất với sự mở rộng lãnh thổ của Hoa Kỳ từ năm 1815 đến năm 1860. Thời đại đó, từ cuối Chiến tranh 1812 đến lúc bắt đầu Nội chiến Hoa Kỳ, được gọi là "Thời đại Vận mệnh hiển nhiên" Trong suốt thời gian đó, Hoa Kỳ mở rộng lãnh thổ đến Thái Bình Dương — "từ biển đến biển chói sáng" — nói chung đã định đoạt biên giới của Hoa Kỳ Lục địa như nó ngày nay.[11]

Chủ nghĩa lục địa

Niềm tin trong thế kỷ 19 rằng Hoa Kỳ dần dần sẽ bao trùm hết tất cả Bắc Mỹ được biết như là "chủ nghĩa lục địa". Người ủng hộ từ đầu ý tưởng này là John Quincy Adams, một khuôn mặt lãnh đạo trong việc mở rộng Hoa Kỳ giữa thời gian mua vùng đất Louisiana năm 1803 và thời chính phủ Polk trong thập niên 1840. Năm 1811, Adams viết thư cho cha của ông rằng:

Cả lục địa Bắc Mỹ hình như được Thượng đế đặt vận mệnh là được định cư bởi người dân của một quốc gia, nói một ngôn ngữ, nhìn nhận một hệ thống tổng thể về các nguyên lý chính trị và tôn giáo, và quen với một phương hướng tổng quát về phong tục và tập quán xã hội. Vì hạnh phúc chung của tất cả mọi người, vì thịnh vượng và bình an của họ, con tin rằng thật cần thiết cho họ được liên kết trong một khối thống nhất liên bang.[12]

Adams còn đi xa hơn nữa với ý tưởng này. Ông giàn xếp Hiệp ước 1818 mà thiết lập biên giới giữa Hoa KỳCanada xa về phía tây đến Dãy núi Rocky và định đoạt việc cùng chia sẻ chủ quyền Xứ Oregon với người Anh. Ông thương lượng Hiệp ước Adams-Onís năm 1819 để mua Florida từ Tây Ban Nha và mở rộng biên giới giữa Hoa Kỳ và Mexico thuộc Tây Ban Nha thẳng đến Thái Bình Dương. Ông hình thành ra Học thuyết Monroe năm 1823 cảnh cáo châu Âu rằng Tây Bán cầu không còn là nơi mở cửa cho người châu Âu thuộc địa hóa.

Học thuyết Monroe và Vận mệnh hiển nhiên là những ý tưởng có liên hệ gần gũi: sử gia Walter McDougall gọi Vận mệnh hiển nhiên là một "hệ luận" của Học thuyết Monroe vì trong lúc Học thuyết Monroe đã không nêu chi tiết về sự bành trướng nhưng sự bành trướng thì rất cần thiết để làm vững mạnh học thuyết. Những mối quan tâm tại Hoa Kỳ rằng các cường quốc châu Âu (đặc biệt là Vương quốc Anh) đang tìm cách thu phục các thuộc địa và gây ảnh hưởng lớn tại Bắc Mỹ đã đưa đến lời kêu gọi người Mỹ dùng bành trướng để ngăn chặn việc này. Trong cuộc nghiên cứu có sức ảnh hưởng của ông vào năm 1935 về Vận mệnh hiển nhiên, Albert Weinberg đã viết rằng "chủ nghĩa bành trướng của thập niên 1840 đã trỗi dậy như một nỗ lực tự vệ nhằm đón đầu sự xâm lấn của châu Âu tại Bắc Mỹ."[13]

Bắc Mỹ thuộc Anh

Mặc dù lúc ban đầu Vận mệnh hiển nhiên có ý trực tiếp đến những lãnh thổ mà người Méxicongười bản thổ Mỹ đang sinh sống, khái niệm này đã đóng một vai trò trong các mối quan hệ của Hoa Kỳ đối với Bắc Mỹ thuộc Anh (sau đó trở thành Canada) ở phía bắc. Từ lúc Cách mạng Mỹ, Hoa Kỳ đã từng nói rõ mong muốn của mình là đánh đuổi Đế quốc Anh ra khỏi Bắc Mỹ. Sự thất bại trong việc đánh đuổi người Anh ra khỏi Bắc Mỹ trong cả Chiến tranh Cách mạng MỹChiến tranh 1812 khiến người Mỹ lại chấp nhận sự hiện diện của người Anh trên biên giới phía bắc của mình. Tuy nhiên những nỗi lo sợ về sự bành trướng khả dĩ của người Anh ở nơi khác tại Bắc Mỹ là một chủ tố định kỳ của thuyết Vận mệnh hiểu nhiên.

Trước năm 1815

Trong suốt Cách mạng Mỹ và những năm đầu độc lập, có nhiều nỗ lực hòa bình cũng như bạo động để đưa Canada nhập vào Hoa Kỳ. Những người cách mạng Mỹ hy vọng rằng người Canada gốc Pháp sẽ gia nhập Mười ba Thuộc địa trong nỗ lực xóa bỏ quyền cai trị của Đế quốc Anh. Canada được mời gởi đại diện đến dự Quốc hội Lục địa và được chấp thuận trước để gia nhập Hoa Kỳ theo Các điều khoản Liên bang. Trong các cuộc thương lượng hòa bình tại Paris, Benjamin Franklin đã cố thuyết phục Anh nhường Canada cho Hoa Kỳ. Canada bị xâm phạm trong Chiến tranh giành độc lập và lần nữa trong Chiến tranh 1812. Cả hai cuộc xâm phạm đã chứng tỏ không thành công trong việc mang Canada về bên cạnh Mười ba Thuộc địa.

Những nỗ lực đánh đuổi Đế quốc Anh ra khỏi Bắc Mỹ đôi khi được nói đến như là những thí dụ sớm nhất về Vận mệnh hiển nhiên đang chuyển mình. Tuy nhiên một số học giả trong đó có sử gia Reginald Stuart cho rằng những sự kiện này thì khác về tính chất với những sự kiện xảy ra trong "Thời đại Vận mệnh hiển nhiên". Trước năm 1815, Stuart viết, "những gì, trông có vẽ như chủ nghĩa bành trướng lãnh thổ, thật ra trỗi dậy vì trạng thái tâm lý tự vệ chứ không phải vì những tham vọng chinh phục và thôn tính."[14] Từ quan điển này, Vận mệnh hiển nhiên không phải là nhân tố gây bùng nổ Chiến tranh 1812 nhưng rõ ràng hơn là xuất hiện như một niềm tin chung trong những năm sau chiến tranh.[14]

Gây loạn tại Canada

Người Mỹ càng ngày càng bắt đầu chấp nhận sự hiện hiện của các thuộc địa Anh ở phía bắc sau Chiến tranh 1812 mặc dù người nói tiếng Anh tiếp tục trải rộng khắp Hoa Kỳ. Nhiều người Mỹ, đặc biệt là những người sống dọc biên giới, hy vọng rằng Những cuộc nổi loạn 1837 sẽ kết liễu Đế quốc Anh tại Bắc Mỹ và mang đến sự thiết lập chính phủ cộng hòa tại Canada. Nói về các sự kiện đó, John O'Sullivan viết: "Nếu tự do là một điều tốt lành nhất trong những điều tốt lành của quốc gia, nếu chính quyền tự trị là quyền lợi đầu tiên của quốc gia,... thì chúng ta nghiêng về phía đồng tình với chính nghĩa nổi dậy của người Canada."[15] Những người Mỹ như O'Sullivan xem các cuộc nổi dậy của người Canada như là sự tái diễn cuộc Cách mạng Mỹ, và cho rằng người Canada đang sống dưới sự áp bức thống trị của ngoại bang mặc dù đa số người Canada vào thời đó không nghĩ như thế.

Mặc dù đồng tình với chính nghĩa của những người nỗi loạn, niềm tin vào Vận mệnh hiển nhiên đã không tạo ra sự phản ứng rộng khắp của người Mỹ đối với các cuộc nỗi loạn, một phần vì các cuộc nỗi loạn kết thúc quá nhanh chóng. Về phần ông, O'Sullivan khuyến cáo chống lại sự can thiệp của Hoa Kỳ. Một số người Mỹ gây rối — là những binh sĩ tình nguyện bất hợp pháp, bị lôi cuốn bởi một niềm tin vào Vận mệnh hiển nhiên - đã đến Canada để tiếp tay những người nỗi loạn nhưng Tổng thống Martin Van Buren đã phái Tướng Winfield Scott bắt những người gây rối và giữ hòa bình tại biên giới. Một số những người gây rối ngoan cố thành lập các toán bí mật được biết như là Frères chasseurs và cố khơi động chiến tranh để "giải phóng" Canada. Cái gọi là "Chiến tranh yêu nước" là một sự kiện như vậy nhưng cảm nghĩ của người Mỹ và chính sách chính thức của chính phủ Hoa Kỳ là chống lại những hành động này. Các cuộc đột kích Fenian sau Nội chiến Hoa Kỳ có chung một số điểm giống các hành động của những người gây rối nhưng nếu như không thì không có liên quan gì đến ý tưởng của Vận mệnh hiển nhiên hay bất cứ chính sách nào của chủ nghĩa bành trướng Mỹ.[16]

"Cả Oregon"

Việc mở rộng lãnh thổ về phía tây của người Mỹ được lý tưởng hóa trong bức tranh họa nổi tiếng của Emanuel Leutze Westward the Course of Empire Takes its Way (1861). Tên của bức họa có nguồn gốc từ một bài thơ năm 1726 của Bishop Berkeley là thuật ngữ thường được trích dẫn trong thời đại Vận mệnh hiển nhiên nhằm nói lên một niềm tin rằng nền văn minh dần dần di chuyển về hướng tây suốt lịch sử. (đọc thêm bằng tiếng Anh)

Vận mệnh hiển nhiên đóng vai trò quan trọng nhất trong cuộc tranh chấp biên giới Oregon với Vương quốc Anh. Hiệp định Anh-Mỹ 1818 kết thúc với thỏa thuận cùng chia sẻ quyền sở hữu Xứ Oregon. Hàng ngàn người Mỹ đã di cư đến đây trong thập niên 1840 qua Đường mòn Oregon. Người Anh bác bỏ lời đề nghị của Tổng thống John Tyler phân chia vùng này theo vĩ tuyến 49 độ bắc và thay vì thế đã đề nghị một đường biên giới xa về phía nam dọc Sông Columbia mà đã có thể biến vùng đất bây giờ là tiểu bang Washington thành một phần của Bắc Mỹ thuộc Anh. Những người ủng hộ Vận mệnh hiển nhiên đã phản đối và kêu gọi sáp nhập toàn bộ Xứ Oregon lên đến phân giới Alaska (54°40ʹ bắc). Ứng cử viên tổng thống James K. Polk dùng lời kêu gọi phổ biến này để lấy lợi thế về mình, và những đảng viên Dân chủ cũng kêu gọi sáp nhập "Cả Oregon" trong cuộc bầu cử tổng thống Hoa Kỳ năm 1844.

Tuy nhiên, với tư cách là tổng thống, Polk đã tái tục đề nghị như trước là phân chia lãnh thổ Oregon dọc vĩ tuyến 49 chống lại ước nguyện của những người cổ võ hăng hái nhất về Vận mệnh hiển nhiên. Khi người Anh bác bỏ lời đề nghị, những người theo chủ nghĩa bành trướng Mỹ đáp lời với khẩu hiệu như "Toàn bộ Oregon hoặc là không!" và "Năm mươi bốn Bốn mươi (54°40ʹ) hay là Đánh!", có ý ám chỉ biên giới phía bắc của Xứ Oregon khi đó lên đến tận đường phân giới Alaska. Khi Polk hành động chấm dứt thỏa thuận cùng chia sẻ quyền sở hữu, người Anh cuối cùng đồng ý phân chia vùng lãnh thổ này dọc theo vĩ tuyến 49, và cuộc tranh chấp được giải quyết qua đường lối ngoại giao bằng Hiệp ước Oregon năm 1846.

Mặc dù lời hô hào trước đây đòi "Cả Oregon," hiệp ước được mọi người tại Hoa Kỳ ủng hộ và dễ dàng được thông qua tại Thượng viện Hoa Kỳ, đặc biệt vì Hoa Kỳ vào thời điểm đó đang có chiến tranh với México. Nhiều người Mỹ tin rằng thế nào thì các tỉnh của Canada dần dần rồi cũng sẽ gia nhập vào Hoa Kỳ, và rằng chiến tranh thì không cần thiết và phản tác dụng trong việc làm tròn vận mệnh. Những người theo tư tưởng Vận mệnh hiển nhiên cuồng nhiệt nhất đã không có mặt nhiều dọc biên giới phía bắc vì theo lời của Reginald Stuart: "la bàn của Vận mệnh hiển nhiên chỉ về hướng tây và hướng tây nam, chớ không phải là hướng bắc mặc dù sử dụng thuật từ chủ nghĩa lục địa."[17]

Mexico và Texas

Vận mệnh hiển nhiên đã chứng tỏ có kết quả hơn trong mối quan hệ của Hoa Kỳ đối với México. Năm 1836, Cộng hòa Texas tuyên bố độc lập khỏi Mexico và sau cuộc Cách mạng Texas, đã tìm cách gia nhập Hoa Kỳ như một tiểu bang mới. Đây là một tiến trình lý tưởng của việc mở rộng lãnh thổ mà đã được cổ vũ từ những người như Jefferson đến O'Sullivan: các tiểu bang độc lập và mới sẽ xin gia nhập Hoa Kỳ hơn là Hoa Kỳ chủ động mở rộng và áp đặt chính phủ của mình lên người dân mà không ưa nó. Tuy nhiên việc sáp nhập Texas là một vấn đề gây tranh cãi vì điều đó có nghĩa là thêm một tiểu bang có chế độ nô lệ vào liên bang. Hai vị tổng thống Andrew Jackson và Martin Van Buren không nhận lời cho Texas gia nhập Hoa Kỳ một phần vì vấn đề nô lệ đe dọa chia rẻ Đảng Dân chủ.

Trước cuộc bầu cử năm 1844, ứng cử viên Whig Henry Clay và ứng cử viên được tiên đoán trước của Đảng Dân chủ là cựu Tổng thống Van Buren đều tuyền tố rằng họ chống đối việc sáp nhập Texas. Hai người đều hy vọng đặt đề tài rắc rối này ra ngoài, không để nó trở thành một vấn đề tranh cử. Tuy nhiên không như trông đợi, việc này đã khiến cho Van Buren bị Đảng Dân chủ gạt ra ngoài và chọn Polk người chủ trương sáp nhập làm ứng viên tổng thống của Đảng Dân chủ. Polk ràng buộc vấn đề sáp nhập Texas với việc tranh chấp Oregon, như thế tạo ra một loại thỏa hiệp giữa các vùng trong vấn đề mở rộng lãnh thổ. Những người chủ trương mở rộng lãnh thổ ở miền Bắc có chiều hướng cổ vũ việc chiếm đóng Oregon trong khi những người chủ trương mở rộng lãnh thổ tại miền Nam chính chủ tập trung vào việc sáp nhập Texas. Mặc dù được bầu lên với số tỉ lệ rất khích khao, Polk tiến hành việc sáp nhập như thể việc đắc cử tổng thống của ông đã là một sự ủy nhiệm mở rộng lãnh thổ.

"Cả Mexico"

Sau sự đắc cử của Polk, nhưng trước khi ông nhậm chức, Quốc hội Hoa Kỳ chấp thuận sáp nhập Texas. Polk ra tay chiếm đóng một phần Texas mà cũng là phần Mexico tuyên bố chủ quyền làm bùng nổ Chiến tranh Mexico-Mỹ vào ngày 24 tháng 4 năm 1846. Với những thành công của người Mỹ tại chiến trường vào mùa hè năm 1847, có các lời kêu gọi sáp nhập "cả Mexico", đặc biệt là trong số các đảng viên Dân chủ miền Đông. Họ cho rằng mang Mexico vào liên bang là giải pháp tốt nhất để bảo đảm nền hòa bình tương lai trong vùng.[18]

Đây là một lời đề nghị gây nhiều tranh cãi vì hai lý do. Thứ nhất, những nhà tư tưởng của Vận mệnh hiển nhiên như John L. O'Sullivan luôn luôn cho rằng luật pháp Hoa Kỳ không nên áp đặt vào người khác ngược lại ý nguyện của họ. Sự sáp nhập "toàn bộ Mexico" sẽ là một sự vi phạm nguyên tắc này. Và thứ hai, việc sáp nhập Mexico có nhiều tranh cãi vì có nghĩa là mở rộng quyền công dân Hoa Kỳ cho hàng triệu người Mexico. Thượng nghị sĩ John C. Calhoun của Nam Carolina là người chấp thuận việc sáp nhập Texas nhưng lại chống đối việc sáp nhập Mexico cũng như khía cạnh "sứ mệnh" của Vận mệnh hiển nhiên vì lý do chủng tộc. Ông đã nói rõ điều này trong một bài diễn văn đọc trước Quốc hội Hoa Kỳ ngày 4 tháng 1 năm 1848:

Chúng ta chưa từng mơ đến việc hợp nhất vào liên bang của chúng ta bất cứ chủng tộc nào ngoài chủng tộc Caucasian — chủng tộc da trắng tự do. Hợp nhất Mexico sẽ là một thí dụ đầu tiên về kiểu này, kiểu hợp nhất một chủng tộc da đỏ; vì phân nữa người Mexico là người da đỏ, và những người khác phần nhiều là hợp chủng. Tôi phản đối chống lại một liên bang như thế! Chính phủ của chúng ta, thưa ngài, là của một chủng tộc da trắng.... Chúng ta rất đổi khao khát đặt chính phủ tự do lên tất cả; và tôi thấy rằng nó rất cấp bách... rằng đó là sứ mệnh của quốc gia này truyền bá tự do tôn giáo và dân sự khắp thế giới, và đặc biệt trên lục địa này. Đó là một điều lầm lẫn lớn lao.[19]

Cuộc tranh luận này đã làm lộ rõ một trong các mâu thuẫn của Vận mệnh hiển nhiên: một mặt, trong khi các ý tưởng kỳ thị chủng tộc vốn cố hữu trong Vận mệnh hiển nhiên cho rằng người Mexico, không phải người da trắng, là một chủng tộc hạ đẳng hơn và vì thế không đủ tư cách trở thành người Mỹ nhưng chủ tố "sứ mệnh" của Vận mệnh hiển nhiên đề nghị rằng người Mexico sẽ được cải biến bằng cách đưa họ vào nền dân chủ Mỹ. Chủ nghĩa kỳ thị chủng tộc được dùng để đề cao Vận mệnh hiển nhiên nhưng trong trường hợp của Thượng nghị sĩ Calhoun và phong trào chống đối sáp nhập "Cả Mexico", chủ nghĩa kỳ thị chủng tộc được dùng để chống đối Vận mệnh hiển nhiên.[20]

Vấn đề gây tranh cãi này dần dần kết thúc bởi việc Mexico nhượng lại các lãnh thổ Alta CaliforniaNuevo México cho Hoa Kỳ. Cả hai vùng đất này có rất ít dân cư hơn những phần đất còn lại của Mexico. Giống như phong trào "Cả Oregon", phong trào "Cả Mexico" nhanh chóng dịu đi. Sử gia Frederick Merk trong tác phẩm Manifest Destiny and Mission in American History: A Reinterpretation (1963) cho rằng sự thất bại của các phong trào "Cả Oregon" và "Cả Mexico" chứng tỏ Vận mệnh hiển nhiên đã không được ưa chuộng như là các sử gia từ trước tới nay đã diễn tả nó.

Gây loạn ở phía nam

Người gây loạn tên William Walker đã tiến hành một số cuộc viễn chinh vào châu Mỹ Latinh. Khoảng một thời gian, ông cai trị Nicaragua mặc dù sau cùng ông bị Hải quân Hoa Kỳ bắt được và gởi trả ông về Hoa Kỳ. Năm 1860, ông bị bắt và bị hành quyết tại Honduras.

Sau khi Chiến tranh Mexico-Mỹ kết thúc năm 1848, sự bất đồng về việc mở rộng chế độ nô lệ đã làm cho việc sáp nhập lãnh thổ càng thêm chia rẽ đến nổi việc sáp nhập lãnh thổ không trở thành là chính sách chính thức của chính phủ. Người miền bắc càng ngày càng chống đối cái mà họ tin là những nỗ lực của những người chủ nô lệ ở miền nam và bạn bè của họ tại miền bắc muốn mở rộng chế độ nô lệ bằng mọi giá.

Không có sự ủng hộ chính thức của chính phủ, những người cổ vũ cấp tiến nhất của Vận mệnh hiển nhiên càng ngày càng quay sang động thái gây loạn bằng quân sự. Trong khi có một số các cuộc phiêu lưu gây rối tại Canada vào cuối thập niên 1830, mục tiêu chính yếu của những người gây loạn theo thuyết Vận mệnh hiển nhiên là châu Mỹ Latinh, đặc biệt là Mexico và Cuba. Mặc dù bất hợp pháp nhưng các hành động gây rối vào cuối thập niên 1840 và đầu thập niên 1850 được tiểu thuyết hóa trên truyền thông Hoa Kỳ. Những người Mỹ giàu có theo chủ nghĩa bành trướng đã tài trợ hàng tá các cuộc viễn chinh, thường thường có căn cứ xuất phát từ New Orleans.

Hoa Kỳ từ lâu rất có hứng thú trong việc mua Cuba từ Đế quốc Tây Ban Nha đang thời suy tàn. Như đối với Texas, Oregon, và California, những nhà làm chính sách của Mỹ rất quan ngại rằng Cubla sẽ rơi vào tay của người Anh, mà theo tư tưởng của Học thuyết Monroe sẽ tạo ra một mối đe dọa đến quyền lợi của Hoa Kỳ. Vào năm 1848, vì sự thúc giục của John L. O'Sullivan, Tổng thống Polk đề nghị mua Cuba từ Tây Ban Nha với giá 100 triệu đô la Mỹ. Polk sợ rằng những người gây bạo loạn có thể làm hỏng nỗ lực của ông trong việc mua quốc đảo này, vì vậy ông đã thông báo cho người Tây Ban Nha biết về một âm mưu của một người Cuba tên Narcisco Lopez có ý dùng vũ lực để đoạt chiếm Cuba và sáp nhập nó vào Hoa Kỳ. Kết quả là âm mưu đó bị phá vở. Dẫu thế Tây Ban Nha vẫn từ chối bán hòn đảo và nỗ lực mua Cuba của Polk kết thúc trong thất bại. O'Sullivan mặc khác tiếp tục gây quỹ cho các cuộc viễn chinh gây loạn và cuối cùng thì cũng khiến ông rơi vào vấn đề pháp lý.[21]

Các vụ gây loạn tiếp tục là một mối quan tâm chính đối với các tổng thống kế nhiệm Polk. Các tổng thống thuộc Đảng WhigZachary TaylorMillard Fillmore đã tìm cách trấn áp các cuộc viễn chinh. Khi Đảng Dân chủ chiếm lại được tòa bạch ốc vào năm 1852 bằng sự việc đắc cử của Franklin Pierce, một nỗ lực gây loạn của John A. Quitman nhằm chiếm Cuba nhận được sự ủng hộ lớn lao của tổng thống. Tuy nhiên, Pierce rút lui sự ủng hộ và thay vào đó lại tái đề nghị mua hòn đảo với giá 130 triệu. Năm 1854, khi công chúng biết về Tuyên ngôn Ostend cho rằng Hoa Kỳ có thể chiếm hữu Cuba bằng vũ lực nếu như Tây Ban Nha từ chối bán nó, sự việc này thực sự kết thúc nỗ lực của Hoa Kỳ nhằm thu phục Cuba. Công chúng lúc này coi việc mở rộng lãnh thổ có liên quan đến chế độ nô lệ. Nếu Vận mệnh hiển nhiên đã có một thời được sự hậu thuẫn rộng rãi của công chúng thì chuyện này giờ đây không còn là sự thật.[22]

Những người gây loạn như William Walker tiếp tục được đăng tải trên tít lớn của báo chí vào cuối thập niên 1850, nhưng với sự bùng phát của Nội chiến Hoa Kỳ năm 1860, "Thời đại Vận mệnh hiển nhiên" đến thời kết thúc. Chủ nghĩa bành trướng là một trong số các vấn đề đã đóng một vai trò trong cuộc chiến tranh sắp diễn ra. Với vấn đề mở rộng chế độ nô lệ có tính chất gây chia rẻ, miền Bắc và miền Nam thật sự đang bắt đầu định nghĩa Vận mệnh hiển nhiên theo những cách khác nhau, khiến làm hao mòn dần chủ nghĩa quốc gia như một lực lượng thống nhất. Theo Frederick Merk, "Học thuyết Vận mệnh hiển nhiên mà trong thập niên 1840 được xem như là thiên mệnh, đã chứng tỏ là một quả bom gói ghém trong chủ nghĩa lý tưởng."[23]

Người bản thổ Mỹ

Vận mệnh hiển nhiên có những hậu quả nghiêm trọng đối với người bản thổ Mỹ vì sự mở rộng lục địa thường có nghĩa là chiếm đất của người bản thổ Mỹ. Hoa Kỳ tiếp tục chính sách của người châu Âu công nhận rất giới hạn quyền sở hữu đất đai của các dân tộc bản xứ. Trong một chính sách được đề xướng phần nhiều bởi Henry Knox, Bộ trưởng Chiến tranh trong chính phủ tại Washington, D.C., chính phủ Hoa Kỳ tìm cách mở rộng lãnh thổ về phía tây bằng việc mua chính thức đất đai của người bản thổ qua các hiệp ước. Người bản thổ Mỹ được khuyến khích bán đất đai rộng lớn của bộ lạc mình và trở nên "văn minh hoá". Điều này có nghĩa là người bản thổ Mỹ từ bỏ săn bắn và trở thành nông gia. Về mặt xã hội, họ được tổ chức theo các đơn vị gia đình hơn là các nhóm bộ lạc. Thế là Hoa Kỳ thu phục đất đai bằng hiệp ước với các dân tộc bản thổ, thường dưới các tình huống hoàn cảnh thiếu sự tự nguyện và ưng thuận của những người bản thổ đặt bút ký vào các hiệp ước. Những người cổ vũ cho các chương trình văn minh hóa tin rằng tiến trình định cư các bộ lạc bản thổ sẽ giảm thiểu lớn lao số lượng đất đai mà người bản thổ Mỹ cần, tạo thêm đất đai sẵn có cho người Mỹ da trắng lập nghiệp. Thomas Jefferson tin rằng trong khi người bản thổ Mỹ về trí tuệ cũng ngang hàng với người da trắng, họ phải sống như người da trắng hoặc bằng không thì sẽ bị người da trắng đẩy sang một bên. Niềm tin của Jefferson có căn nguyên từ thuyết khai sáng rằng người da trắng và người bản thổ Mỹ sẽ hợp lại để tạo lập một quốc gia đơn độc, đã không tồn tại lâu dài trong cuộc đời của ông. Ông bắt đầu tin rằng người bản thổ nên di cư về bên kia Sông Mississippi và duy trì một xã hội riêng biệt, một ý tưởng đã được thực hiện bằng vụ mua vùng đất Louisiana năm 1803.

Trong thời đại Vận mệnh hiển nhiên, ý tưởng này được biết đến như là "Sự di dời người bản thổ Mỹ" đã thắng thế. Mặc dù một số người ủng hộ việc di dời vì lý do nhân đạo đã tin rằng người bản thổ Mỹ tốt hơn là nên sống xa người da trắng nhưng có con số ngày thêm gia tăng những người Mỹ xem người bản thổ không hơn "dân man rợ" đang đứng cản đường bành trướng của người Mỹ. Trong bài viết nghiên cứu có uy tín "Race and Manifest Destiny", Sử gia Reginald Horsman cho rằng thuật hùng biện mang tính phân biệt chủng tộc gia tăng trong thời đại Vận mệnh hiển nhiên. Người Mỹ càng ngày càng tin rằng người bản thổ Mỹ sẽ biến mất dần khi Hoa Kỳ mở rộng lãnh thổ. Chẳng hạn, ý tưởng này đã được phản ánh trong tác phẩm của một trong các sử gia vĩ đại đầu tiên của Mỹ Francis Parkman, là tác giả của quyển sách mang dấu ấn The Conspiracy of Pontiac được xuất bản năm 1851. Parkman viết rằng người bản thổ Mỹ đã được "định mệnh sắp sẵn là tan rã và biến mất trước làn sóng đang tràn tới đầy sức mạnh của người Anh-Mỹ mà hiện giờ đang tràn về hướng tây không có gì ngăn cản nổi".

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Vận_mệnh_hiển_nhiên http://web.grinnell.edu/courses/HIS/f01/HIS202-01/... http://americanart.si.edu/t2go/1lw/1931.6.1.html http://www.presidency.ucsb.edu/showplatforms.php?p... http://www.presidency.ucsb.edu/ws/index.php?pid=29... http://www.yale.edu/lawweb/avalon/presiden/inaug/p... http://www.h-net.org/reviews/showrev.cgi?path=1389... http://www.pbs.org/kera/usmexicanwar/educators/md3... http://teachingamericanhistory.org/library/index.a... http://en.wikisource.org/wiki/President_Wilson's_W...